Ngày nay, thời Trung cổ châu Âu tiếp tục mang tiếng xấu. Ý tưởng rằng đó là một thời kỳ mông muội và trì trệ đi liền với nó, mặc dù đã bị nhiều sử gia hiện đại bác bỏ[1]. Nhiều người tưởng rằng tư duy khoa học đã biến mất vào thời đó ở châu Âu để chỉ tái xuất hiện vào thời phục hưng, thậm chí trễ hơn, vào thế kỷ XVII với cuộc “cách mạng khoa học”. Và trách nhiệm của sự biến mất của khoa học thường được gán cho Nhà thờ Thiên chúa giáo. Nhà thờ này chẳng đã kết án Giordano Bruno và Galilée vì những ý tưởng khoa học của họ đó sao, nhiều người nói. Thế nhưng, luận đề này – chỉ được sinh ra ở thế kỷ XIX -, về một Giáo hội trung cổ thù địch với khoa học, cũng đã mất hết tín nhiệm nơi các sử gia[2]. Giờ đây, người ta chấp nhận rằng Giáo hội đã tạo thuận lợi cho sự cất cánh của một nền vật lý trung cổ cắt đứt với vật lý trường phái Aristote và báo hiệu vật lý của thế kỷ XVII[3].
Ngày nay, thời Trung cổ châu Âu tiếp tục mang tiếng xấu. Ý tưởng rằng đó là một thời kỳ mông muội và trì trệ đi liền với nó, mặc dù đã bị nhiều sử gia hiện đại bác bỏ[1]. Nhiều người tưởng rằng tư duy khoa học đã biến mất vào thời đó ở châu Âu để chỉ tái xuất hiện vào thời phục hưng, thậm chí trễ hơn, vào thế kỷ XVII với cuộc “cách mạng khoa học”. Và trách nhiệm của sự biến mất của khoa học thường được gán cho Nhà thờ Thiên chúa giáo. Nhà thờ này chẳng đã kết án Giordano Bruno và Galilée vì những ý tưởng khoa học của họ đó sao, nhiều người nói. Thế nhưng, luận đề này – chỉ được sinh ra ở thế kỷ XIX -, về một Giáo hội trung cổ thù địch với khoa học, cũng đã mất hết tín nhiệm nơi các sử gia[2]. Giờ đây, người ta chấp nhận rằng Giáo hội đã tạo thuận lợi cho sự cất cánh của một nền vật lý trung cổ cắt đứt với vật lý trường phái Aristote và báo hiệu vật lý của thế kỷ XVII[3].
Lý thuyết về impetus, sự tiếp cận định luật về ì tính, sự quay của trái đất, sự tồn tại của những thế giới khác chỉ là vài thí dụ về các bước tiến của khoa học trung cổ. Dù chúng có tầm quan trọng thế nào, phải công nhận là chúng không thành công trong việc đề ra một thế giới quan khác Arisote, cũng như không đặt được cơ sở cho một nền vật lý mới, như Galilée sẽ làm được sau này. Điều này có thể hiểu được phần nào, khi ta biết rằng đối với những người trung cổ điều quan trọng không phải là áp dụng lý thuyết của họ vào tự nhiên mà là hình dung ra được những gì khả dĩ có thể coi như thật. Đối mặt với đấng tối cao vô hạn, họ dè dặt trước mọi xác tín khoa học. Như vậy, thay một giải thích vật lý của Aristote bằng một giải thích khác cũng như thật không kém không có nghĩa là đã đạt tới một hiểu biết thật sự về thế giới vật lý. Điều được tìm kiếm là sự gắn kết chặt chẽ về logic chứ không phải là thực tế vật lý.
Ngược lại, sự truy tầm tính thực đó trở thành tâm điểm của nghiên cứu khoa học kể từ thế kỷ XVII. Không còn ai bằng lòng với việc nêu ra các giả thuyết, từ giờ phải nói tới thực tế. Trong khi những người trung cổ không chọn lựa giữa những lời giải thích đều có thể cắt nghĩa những hiện tượng bên ngoài, vì Thượng đế có thể đã tạo ra một thế giới phức tạp hơn nhiều so với những hiện tượng có thể xảy ra, những người “hiện đại” lại cố công tìm ra lời giải thích “thực”. Như thế, việc nghiên cứu trở thành hệ thống hơn, chính xác hơn và cũng tích luỹ hơn. Lòng tự hào sục sôi trong những nhà khoa học mới này là một trong những động lực của thành công mà họ đạt được.
Nguồn: “La science médiévale”, Histoire et philosophie des sciences, sous la direction de T. Lepeltier, Paris, 2013, Sciences Humaines Éditions, p. 35-38.
[1] Chẳng hạn, J. Heers, Le Moyen Âge, une imposture (Trung cổ, một sự bịp bợm), Perrin, 1999.
[2] R.L. Numbers (ed.), Galileo Goes to Jail and Other Myths about Science and Religion (Galileo đi tù và vài huyền thoại khác về khoa học và tôn giáo), Harvard University Press, 2010.
[3] J. Freely, The Birth of Modern Science in Medieval Europe (Trước Galileo, sự ra đời của Khoa học hiện đại tại châu Âu Trung cổ), Overlook Duckworth, 2012.
[4] J. Hannam, God’s Phlosophers. How Do Medieval World Laid the the Foundations of Modern Science (Những triết gia về Thượng đế. Trung cổ đặt nền tảng cho Khoa học hiện đại như thế nào?), Icon Books, 2010.
[5] E. Grant, La Physique au Moyen-Âge, VIè– XVIè siècle (Vật lý thời Trung cổ, Thế kỷ VI-XVI), PUF 1995 [xuất bản lần đầu: 1971]
[6] Jean Buridan, 1292-1363, người Pháp, giảng dạy triết học tại đại học Paris, là người được coi như khởi xướng ra chủ nghĩa hoài nghi đối với tôn giáo (ND).
[7] Nicole Oresme, 1320-1382, giám mục Lisieux, là một nhà bách khoa (toán học, thiên văn, vật lý học, kinh tế, âm nhạc…) của thế kỷ XIV (ND).
[8] Albert de Saxe, 1316-1390, triết gia Đức, giám mục địa hạt Halberstadt từ 1366 đến khi từ trần, là học trò của Jean Buridan (ND).
Giáp Níu, Giáp Buộc Cổ Sứ (PLP Thái Lan)
Nguồn: Wikipedia. Các trang: 38. Chương: Thời Trung cổ, Tiền kỳ Trung cổ, Trung kỳ Trung cổ, Hậu kỳ Trung cổ, Chiến tranh Trăm Năm, Hiệp sĩ dòng Đền, Thời kỳ Khai sáng, Thời kỳ ấm Trung cổ. Trích: Tiền kỳ Trung cổ là một thời kỳ lịch sử của châu Âu kéo dài từ thế kỷ thứ 5 tới khoảng năm 1000. Trước nó là thời kỳ suy tàn của đế quốc La Mã và tiếp sau nó là Trung kỳ Trung cổ (khoảng năm 1000 đến năm 1300). Tiền kỳ Trung Cổ chứng kiến sự tiếp tục của những khuynh hướng bắt đầu từ thời Hậu Cổ đại, bao gồm sự sụt giảm về dân số, đặc biệt ở các thành thị, sự bế tắc trong quan hệ mậu dịch, cùng với những cuộc di cư của man tộc. Các nhà sử học gọi giai đoạn này là "Thời đại tăm tối" vì những đóng góp ít ỏi của nó về mặt văn hóa và giáo dục, đặc biệt ở Tây Âu. Mặc dù vậy, đế quốc Đông La Mã vẫn tiếp tục tồn tại và giữ lại những tinh hoa của Hy Lạp - La Mã để trở thành đế quốc Byzantine. Một điểm đáng lưu ý nữa là việc những thế lực Hồi giáo tiến vào châu Âu trong thế kỷ thứ 7. Những khuynh hướng nêu trên sau đó được đảo ngược lại. Vào năm 800, danh hiệu hoàng đế La Mã được phục hồi bởi Charlemagne, và vương triều Carolingian của ông đã giúp tái sinh nền văn hóa - giáo dục ở Tây Âu. Về mặt sản xuất, châu Âu quay trở lại với một nền nông nghiệp có hệ thống dưới hình thức chế độ phong kiến. Các cuộc di cư của man tộc cũng được bình ổn lại, mặc dù người Viking vẫn liên tục mở rộng phạm vi ảnh hưởng ở phương Bắc. Đế quốc La Mã từng có lãnh thổ rất rộng lớn kéo dài từ châu Âu sang Bắc Phi, đến tận vùng Tiểu Á và Trung Đông. Biên giới phía Bắc là sông Rhine và sông Danube, giáp với các bộ tộc có nguồn gốc từ bán đảo Scandinavia, thường được gọi là các dân tộc German. Ðế chế La Mã hưng thịnh trong nhiều thế kỷ, đem lại sự ổn định, thịnh vượng và trật tự cho thế giới phương Tây. Thế nhưng từ thế kỷ thứ 3, nó đã từng bước suy yếu do nhiều nguyên nhân khác nhau. Năm 395, đế quốc La Mã phân chia lần cuối cùng thành đế quốc Tây La Mã và đế quốc Đông La Mã. Từ đó trở đi, các vị hoàng ...